Dân tộc Ơ-uôn-khơ chủ yếu cư trú ở huyện Nột Hà tỉnh Hắc Long Giang miền đông bắc Trung Quốc và Khu tự trị Nội Mông. Ơ-uôn-khơ là tên tự xưng, có ý nghĩa là "những người sống ở rừng sâu". Tính đến năm 1994, dân tộc Ơ-uôn-khơ có 26 nghìn 315 dân. Trong rừng nguyên thủy Đại Hưng An với độ vĩ bắc 52º, cho đến nay vẫn có dấu chân và khói bếp của đồng bào Ơ-uôn-khơ, làng săn Ao-lu-cu-ya dân tộc Ơ-uôn-khơ cư trú có tên gọi khác là "Làng Bắc Cực".
Dân tộc Ơ-uôn-khơ có tiếng nói, nhưng không có chữ viết. Đồng bào làm nghề chăn nuôi phần lớn sử dụng chữ Mông Cổ, và đồng bào làm nghề nông chủ yếu sử dụng chữ Hán. Văn học truyền miệng của dân tộc Ơ-uôn-khơ có thần thoại, truyện, ca dao và câu đối. Đồng bào dân tộc Ơ-uôn-khơ giỏi về làm các hàng thủ đông bằng vỏ cây bulô.
Đa số đồng bào dân tộc Ơ-uôn-khơ làm nghề chăn nuôi, còn lại thì làm nghề nông. Hươu thuần hóa từng là công cụ giao thông duy nhất của dân tộc Ơ-uôn-khơ, được gọi là "tàu thủy trong rừng".
Dân tộc Ơ-uôn-khơ tin theo Đạo Sa-man và Đạo Lạt-ma. Ngày tết chủ yếu có Tết tế đống đất, tết âm lịch và tết Mi-quơ-lơ.
Ngày 1 tháng 8 năm 1958, huyện tự trị dân tộc Ơ-uôn-khơ thành lập.
Thói quen ăn uống ngày thường:
Đồng bào dân tộc Ơ-uôn-khơ sống ở khu chăn nuôi coi thực phẩm chế biến từ sữa, thịt và thức ăn làm bằng bột mì là thức ăn chính, ba bữa hằng ngày đều không thể thiếu sữa bò, họ không những uống sữa tươi, mà còn chế biến sữa tươi thành sữa chua và thực phẩm sữa khô. Họ thường bôi kem sữa trên bánh mì hoặc điểm tâm mà ăn. Thức ăn làm bằng bột mì là thức ăn chính của họ, ngoài ăn bánh mì nướng ra, họ còn thường ăn mì, bánh nướng mặn, khi ăn, họ thường ăn cùng với sữa tươi hoặc bơ. Có khi họ cũng ăn gạo và kê, nhưng đều nấu thành cháo thịt, rất ít ăn cơm. Họ chủ yếu ăn thịt bò và thịt dê. Dân tộc Ơ-uôn-khơ luôn mổ giết súc vật với số lượng lớn để cất giữ thịt trước mùa đông. Họ cất giữ thịt bò và thịt dê sau khi đông hoặc sấy khô. Cách ăn thịt chủ yếu gồm: thịt bốc tay, xúc xích nhồi, cháo thịt và xâu thịt nướng v,v. Dân tộc Ơ-uôn-khơ sống ở rừng nguyên thủy Đại Hưng An miền bắc coi thịt động vật là thức ăn chính, họ ăn thịt hươu, thịt gấu, thịt heo rừng, thịt sóc, thịt gà rừng và cá, cách nấu ăn cũng hơi khác với ở khu vực chăn nuôi. Khi ăn thịt hươu, họ luôn ăn gan và thận hươu sống, và thịt còn lại thì nấu chín mà ăn. Họ có hai cách nấu nướng: một là luộc thịt chín tới, dùng dao cắt thịt ăn, chú trọng cái thú "nhai", hoặc thái thịt thành từng miếng và xâu vào que gỗ, nướng chín chấm muối ăn; cách khác là luộc thịt chín tới 70%-80% chín, rồi sấy khô, khi ăn dùng lửa nướng hoặc thái nhỏ nấu cháo, hoặc cứ thế ăn. Khi làm món cá, đồng bào dân tộc Ơ-uôn-khơ thường làm món cá hấp, khi hấp, chỉ cho vào hành rừng và muối, chú trọng mùi vị vốn có của cá. Họ ít ăn rau, chỉ thu lượm một ít hành rừng muối ăn. Từ thập niên 50 thế kỷ 20, thức ăn chính của dân tộc Ơ-uôn-khơ từng bước được các thức ăn làm bằng bột mì như mì, bánh nướng mặn và bánh mì hấp thay thế.
1 2
|