Vài nét về Đài phát thanh quốc tế Trung QuốcBan tiếng Việt Nam

Dự Báo Thời Tiết
China Radio International
Thời sự Trung Quốc 
Thời sự Quốc Tế 
  Đời sống kinh tế 
  Đời sống xã hội 
  Hộp thư Ngọc Ánh

Khoa học-Đời sống

Thế giới phụ nữ

Vườn văn hóa

Câu chuyện cuối tuần

Truyện thành ngữ Trung Quốc
(GMT+08:00) 2003-12-18 14:39:05    
Vùng trung và hạ du sông Trường Giang 3:Giao thông đường sông phát triển

cri
Vùng trung và hạ du sông Trường Giang có kênh đào Kinh Hàng-một đường giao thông đường sông quan trọng và có lịch sử lâu đời ở Trung Quốc . Kênh đào này khởi điểm từ Bắc Kinh ở phía bắc và tới Hàng Châu ở phía nam , đi qua các tỉnh và thành phố như Hà Bắc , Thiên Tân , Sơn Đông , Giang Tô và Chiết Giang , xuyên qua lưu vực của 5 con sông như Hải Hà , Hoàng Hà , sông Hoài , Trường Giang và sông Tiền Đường , với tổng chiều dài 1700 km , là con đường giao thông đường thủy nối liền miền nam với miền bắc trong lịch sử Trung Quốc . Ngày nay đoạn kênh đào ở phía bắc sông Hoàng Hà đã không được sử dụng nữa , nhưng đoạn từ Sơn Đông , Giang Tô đến Chiết Giang vẫn đang đóng vai trò quan trọng . Trải qua cải tạo , kênh đào này không những là con đường giao thông trong khu vực ra mà còn là tuyến đường giao thông quan trọng vận chuyển than từ miền bắc xuống miền nam cũng như vận chuyển lương thực từ miền nam lên miền bắc .

Đối với Trung Quốc ngày nay , tuyến đường giao thông đường sông quan trọng nhất có thể nó là sông Trường Giang .

Trường Giang là con sông lớn nhất ở Trung Quốc , bắt nguồn từ dãy núi Tang-cu-la tỉnh Thanh Hải , vùng thượng nguồn gọi là sông Tua Tua , đoạn tiếp theo là sông Thông Thiên , và sông Kim Sa , đoạn từ Nghi Tân trở về xuôi mới gọi là sông Trường Giang . Tổng chiều dài của sông Trường Giang là 6300 km , xếp thứ nhất châu Á và thứ 3 trên thế giới . Đoạn từ đầu nguồn đến Nghi Xương tỉnh Hồ Bắc với chiều dài 4529 km là vùng thượng du sông Trường Giang , đoạn từ Nghi Xương đến Hồ Khẩu tỉnh Giang Tây với chiều dài 931 km là vùng trung du ,đọan từ Hồ Khẩu cho đến đổ ra biển dài 840 km là vùng hạ du . Lưu vực sông Trường Giang rộng 1 triệu 800 nghìm km vuông , tương đương trên một phần năm diện tích Trung Quốc .

Vùng lưu vực sông Trường Giang có lượng mưa dồi dào , nhiều sông ngòi . Mỗi năm đổ ra biển khoảng một nghìn tỷ mét khối , gấp 17,5 lần sông Hoàng Hà , chiến trên một phần ba tổng lưu lượng của các con sông trong cả nước . Có tới 700 con sông chi nhánh đổ vào sông Trường Giang , trong đó có 10 con sông có lưu lượng trên 1000 mét khối giây .

Sông Trường Giang là một huyết mạch giao thông quan trọng của Trung Quốc . Tổng chiều dài giao thông đường sông trong cả nước chỉ bằng một nửa tổng chiều dài giao thông trên sông Trường Giang .

Chỉ riêng đoạn từ cửa sông Trường Giang đến Nghi Tân ở thượng có thể chạy tàu quanh năm , trong đó đoạn từ Nam Kinh trở xuống có thể chạy tàu biển 25 nghìn tấn. Từ Vũ Hán đến Nam Kinh có thể chạy tàu 5 nghìn tấn , từ Nghi Xương đến Vũ Hán có thể chạy tàu 3 nghìn tấn và từ Trùng Khánh đến Nghi Xương có thể chạy tàu 1500 tấn . Những con sông chi nhánh quan trọng của sông Trường Giang như sông Hán , sông Tương , sông Cán , sông Gia Lăng , sông Bồi , sông Ô ...đều là những tuyến đường giao thông đường sông quan trọng . Năng lực vận tải đường sông to lớn của sông Trường Giang đã không ngừng thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các địa phương dọc sông .

Sông Trường Giang cuồn cuộn vừa có lợi cũng có hại . Lưu vực sông Trường Giang là những khu vực thiên tai lũ lụt nghiêm trọng ở Trung Quốc , nhất là vùng trung và hạ du . Từ thế kỷ 20 đến nay , sông Trường Giang từng xảy ra 4 trận lũ nghiêm trọng , cướp đi tính mạng của mấy trăm ngàn người , gây thiệt hại về kinh tế là không sao tính xuể . Do đó việc phòng chống như thế nào nạn lũ lụt ở vùng trung và hạ du sông Trường Giang đã trở thành một đề tài quan trọng trong công tác thủy lợi của Trung Quốc .

1  2