Một người hai mái chèo. Thuyền dài 8 mét, rộng 20 căng-ti-mét, trọng lượng nhẹ nhất 14 kg. Có hai mái chèo lắp hai bên mạn thuyền. Khi chèo lưng vận động viên hướng về mũi thuyền, ngồi trên ván trượt, chân đạp tay chèo. Dùng sức điều khiển hai mái chèo để khống chế hướng đi.
Hai người hai mái chèo. Thuyền dài 9,90 mét, rộng 35 căng-ti-mét, trọng lượng nhẹ nhất 27 kg. Hai mạn thuyền mỗi bên lắp hai mái chèo. Khi chèo, hai vận động viên ngồi trước và ngồi sau đều ngồi trên ván trượt, chân đạp tay chèo, phối hợp chèo thuyền. Dùng sức điều khiển mái chèo phải và trái để khống chế hướng đi.
Hai người một mái chèo không người bẻ lái. Thuyền dài 9,90 mét, rộng 35 căng-ti-mét, trọng lượng nhẹ nhất 27 kg. Hai mạn thuyền có giá lắp mái chèo, đằng trước bên trái, đằng sau bên phải. Đuôi thuyền có bánh lái, vận động viên dùng chân điều khiển hướng đi. Khi chèo thuyền, hai vận động viên ngồi đằng trước và đằng sau đều ngồi trên ván trượt, chân đạp tay chèo, phối hợp chèo thuyền.
Hai người một mái chèo có người bẻ lái. Thuyền dài 10 mét, rộng 35 xăng-ti-mét, trọng lượng nhẹ nhất 32 kg. Hai mạn thuyền có giá đặt mái chèo, đằng trước bên trái, đằng sau bên phải. Mũi thuyền hoặc đuôi thuyền có bánh lái, vận động viên dùng chân khống chế hướng đi. Khi chèo thuyền, hai vận động viên đều ngồi trên ván trượt, chân đạp tay chèo, phối hợp chèo thuyền, một người bẻ lái dùng bánh lái điều khiển phương hướng.
Bốn người hai mái chèo. Thuyền dài 12,50 mét, rộng 49 xăng-ti-mét, trọng lượng nhẹ nhất 52 kg. Hai mạn thuyền lần lượt lắp bốn bộ giá đặt mái chèo, đuôi thuyền có bánh lái. Khi chèo thuyền, bốn vận động viên mỗi người cầm hai mái chèo, chân đạp tay chèo, phối hợp chèo thuyền. Trong đó người chèo số một dùng chân điều khiển hướng đi. Chỉ có môn nam, năm 1976 được đưa vào thi đấu ở thế vận hội.
Bốn người một mái chèo không người bẻ lái. Thuyền dài 12,50 mét, rộng 49 xăng-ti-mét, trọng lượng nhẹ nhất 50 kg. Hai mạn thuyền đặt so le bốn giá đặt mái chèo, có bánh lái. Khi chèo, bốn vận động viên mỗi người cầm một mái chèo, chân đạp tay chèo, phối hợp chèo thuyền. Trong đó một người dùng dân điều khiển bánh lái. chỉ có môn nam, năm 1900 được đưa vào thi đấu ở thế vận hội.
Bốn người một mái chèo có người bẻ lái. Thuyền dài 13,25 mét, rộng 49 xăng-ti-mết, trọng lượng nhẹ nhất 51 kg. Hai mạn thuyền so le đặt bốn giá đặt mái chèo. Có bánh lái, đặt ở mũi thuyền hoặc đuôi thuyền. Khi chèo, bốn vận động viên mỗi người cầm một mái chèo, chân đạp tay chèo, phối hợp chèo thuyền. Người bẻ lái khống chế hướng đi.
Tám người một mái chèo có người bẻ lái. Thuyền dài 17 mét, rộng 57 xăng-ti-mét, trọng lượng nhẹ nhất 96 kg. Hai mạn thuyền so le đặt tám giá đặt mái chèo. Có bánh lái, lắp ở mũi thuyền hoặc đuôi thuyền. Khi chèo thuyền, tám vận động viên mỗi người cầm một mái chèo, chân đạp tay chèo, phối hợp chèo thuyền. Do người bẻ lái khống chế hướng đi. Vận động viên số 8 gần đuôi thuyền là người dẫn chèo, do người này khống chế tốc độ và nhịp độ vung mái chèo .
|