Kể từ thế vận hội năm 1924, thể dục dụng cụ đã bứt khỏi tình trạng nội dung lẫn lộn, hình thành các môn cơ bản của thể dục dụng cụ thi đấu hiện đại. Môn điền kinh đã hủy bỏ các nội nội dung nhảy xa tại chỗ, tung ấm, ném xa...và ngày càng tiêu chuẩn hóa. Ủy ban ô-lim-pích quốc tế năm 1930 sau khi thương lượng với các liên đoàn thể thao quốc tế đã quyết định các môn thi đấu chính thức tại thế vận hội là điền kinh, thể dục dụng cụ, quyền anh, đấu kiếm, vật và bắn súng mang tính phòng ngự, các môn dưới nước gồm đua thuyền, bơi lội, môn điều khiển ngựa, 5 môn phối hợp toàn năng, đua xe đạp, cử tạ, thuyền buồm và thi nghệ thuật , Ban tổ chức có thể chọn các môn như quần vợt sân cỏ, bóng nước, khúc côn cầu trên băng, bóng ném, bóng rổ...
Ủy ban ô-lim-pích quốc tế cùng năm đã quyết định Thế vận hội diễn ra trong 16 ngày, đồng thời qui định trừ môn thi đấu tập thể ra, mỗi quốc gia chỉ được cử 3 vận động viên tham gia trong một môn thi. Các môn của nữ gồm thể dục dụng cụ, điền kinh, bơi lội và đấu kiếm. Có sự giới hạn thống nhất đối với tư cách tham gia thi đấu của vận động viên, có qui định cụ thể trong nhiều vấn đề như ghi tên tham gia, tổ chức thi đấu.
Thế vận hội An-tơ-oa năm 1920 lần đầu tiên sử dụng đường chạy 400 mét, sau này đường chạy này được xác định là đường chạy tiêu chuẩn của thế vận hội; Thế vận hội Pa-ri năm 1924 bắt đầu có bể bơi với đường đua 50 mét. Cơ sở sân bãi thi đấu của thế vận hội trên cơ sở được qui phạm hóa đã tiến một bước được cải thiện tại thế vận hội Lốt An-giơ-lét năm 1932 và thế vận hội Béc-lin năm 1936. Thế vận hội Béc-lin còn xuất hiện sân vận động cỡ lớn có sức chứa 110 nghìn người. 1 2
|