Vài nét về CRI            Ban tiếng Việt Nam
Trang chủ | Chuyên đề | Thể dục thể thao | Nhà Trường | Hộp thư Ngọc Ánh | Bách Khoa TQ
 
Thời sự | Văn hoá | Du lịch | Vui chơi giải trí | Tổng hợp | Tin ảnh | Học tiếng Trung Quốc      Vào Trang Cũ >>
 
  Thuốc bổ âm: Mạch Đông-Thiên Đông
   2009-03-20 15:21:20    CRIonline

Thiên Đông

Thiên Đông: Vị cam, vị đắng, tính hàn, quy kinh lạc phổi, thận và dạ dày. Thiên Đông gồm hai công hiệu chữa trị chủ yếu. Một là dưỡng âm nhuận khô, thích hợp chữa trị các chứng thận âm hư, chứng nhiệt làm phương hại tới hệ thống tiết dẫn đến chán ăn, khát nước, đường ruột khô gây nên táo bón. Công hiệu thứ hai là thanh phổi sản sinh nước bọt, thích hợp chữa trị chứng phổi âm hư.

Cách dùng và liều lượng: Dùng Thiên Đông sắc nước uống, mỗi lần từ 6-12 gam.

Cách dùng và liều lượng: Thiên Đông vị cam, tính hàn, chất nhuận, vị ngấy, những người tỳ hư đi loãng, đờm thấp nghiêm trọng kiêng dùng.

Mạch Đông và Thiên Đông đều được bào chế từ rễ của loại cây Bách Hợp thân cỏ sinh trưởng nhiều năm. Hai vị thuốc này đều vị cam, vị đắng, tính hàn, quy kinh lạc phổi và vị, đều có công hiệu dưỡng âm nhuận khô, thanh phổi sản sinh nước bọt. Hai vị thuốc này đều có thể dưỡng âm, nhuận phổi, thanh nhiệt phổi, dưỡng âm dạ dày, thanh nhiệt dạ dày, sản sinh nước bọt, giải khát, đồng thời có thể thấm nhuần đường ruột thông đại tiện, có thể chữa trị các chứng mũi khô, cổ họng khô, ho khàn, đờm ít, khạc ra máu, đau cổ họng, khàn tiếng do âm hư phổi nhiệt gây nên; lưỡi khô, khát nước, tức dạ dày, đau dạ dày, đói mà không muốn ăn, bị ợ, táo bón do chứng nhiệt làm phương hại tới hệ thống tiết hoặc dạ dày âm hư gây nên cũng như các chứng nước bọt ít, khát nước, chứng nhiệt phương hại tới hệ thống tiết, dẫn đến đường ruột khô ráo và táo bón. Mạch Đông và Thiên Đông thường dùng chung với nhau trong lâm sàng. Điều khác nhau là Mạch Đông vị hơi đắng, tính hơi hàn, công hiệu bổ âm nhuận khô, thanh nhiệt sản sinh nước bọt của Mạch Đông kém hơn so với Thiên Đông, chất nhuận và vị ngấy cũng yếu hơn, bên cạnh đó Mạch Đông còn có công hiệu thanh tâm, giải buồn bực, dưỡng tâm, thanh nhiệt giải buồn bực, an thần, đồng thời cũng có thể chữa trị chứng buồn bực, mất ngủ, hay nằm mơ, hay quên, tim đập nhanh do tim âm hư gây nên cùng các chứng nhiệt làm phương hại tới tim, buồn bực ít ngủ. Thiên Đông vị đắng hơn, tính hàn hơn, công hiệu thanh hỏa sản sinh nước bọt mạnh hơn, tính bổ nhuận và vị ngấy cũng đậm hơn, trong khi đó có thể bổ dưỡng âm cho thận, hạ hỏa giả, ngoài ra có thể chữa trị các chứng chóng mặt, ù tai, mỏi lưng, đau nhức do âm khí thận suy nhược gây nên cũng như chứng thấp khớp, nóng ẩm, di tinh v.v bởi âm hư hỏa vượng gây nên.


1 2