"Thi Thánh" Đỗ Phủ
Bạn Lê Minh Huấn viết lưu ký như sau: chị Ngọc Ánh ơi, Bác Hồ Chí Minh trong di chúc của mình có nói đến thơ của nhà thơ Đỗ Phủ "Nhân sinh thất thập cổ lai hy", tôi muốn chị giới thiệu đôi điều về nhà thơ này. Xin cảm chị. Bạn Nguyễn Thanh Hùng ở quận 8 thành phố Hồ Chí Minh viết thư điện tử hỏi: Tại sao Đỗ Phủ lại được mênh danh là "Thi Thánh"? Mong chị Ngọc Ánh giải đáp.
Ngọc Ánh: Sau đây Ngọc Ánh xin giải đáp chung câu hỏi của hai bạn Minh Huấn và Thanh Hùng, hoan nghênh các bạn khác quan tâm vấn đề này cùng nghe. Đỗ Phủ là nhà thơ thời nhà Đường nổi tiếng Trung Quốc, Ngọc Ánh cũng rất yêu thích nhiều bài thơ bất hủ của ông, sau đây Ngọc Ánh xin giới thiệu đôi nét về nhà thơ Đỗ Phủ, nếu bạn cũng thích tìm hiểu, hoan nghênh viết thư cho Ngọc Ánh.
Trong lịch sử văn học Trung Quốc, mọi người thường nói đến "Lý Đỗ" là đại diện cao nhất về thành tựu của thơ ca đời Đường (618-907). Trong đó "Lý" chỉ "Thi Tiên" Lý Bách nổi tiếng khắp thế giới, "Đỗ" chỉ "Thi Thánh" Đỗ Phủ.
Đỗ Phủ sinh vào năm 712 công nguyên, là cháu của nhà thơ nổi tiếng Đỗ Thẩm Ngôn. Từ thuở nhỏ Đỗ Phủ đã rất thông minh, và chịu khó học tập, hơn nữa gia đình có bầu không khí văn hóa nồng nàn, lúc 7 tuổi, ông đã biết viết thơ, sau khi trưởng thành ông thông thạo thư pháp, hội họa, âm nhạc, cưỡi ngựa và chơi gươm. Lúc thanh niên, Đỗ Phủ cho rằng mình có tài ba lỗi lạc và chí hướng to lớn, năm 19 tuổi, ông bắt đầu vân du thiên hạ, sống cuộc sống lãng mạn, ăn chơi lông bông. Quãng thời gian đó chính là thời kỳ phồn vinh nhất của đời Đường, Đỗ Phủ thăm nhiều danh lam thắng cảnh, kiến thức ngày càng rộng lớn, viết ra câu thơ nổi tiếng hàng nghìn năm là "Hội đương lăng tuyệt đỉnh, nhất lãm chúng sơn tiểu".
Giống như nhiều nhà văn khác, Đỗ Phủ cũng mong đi lên con đường làm quan, ông không ngừng làm thơ tham gia hoạt động xã giao với quyền quý, tham gia thi khoa cử, nhưng bị thất bại nhiều lần. Vào thời trung niên, Đỗ Phủ sống trong cảnh nghèo khó ở Trường An, Đô thành thời nhà Đường, ông tận mắt chứng kiến tình hình kẻ quyền quý ăn chơi xa xỉ và cảnh thê thảm người nghèo chịu rét chết đói trên đường phố, ông viết ra lời răn "Chu môn tửu nhục xú, lộ hữu đống tử cốt". Có nghĩa là "Cửa son rượu thịt ôi, cửa son đầy xác chết" .Trải qua sự ngã lòng trầm luân trên con đường làm quan và cuộc sống đói rét khổ cực, Đỗ Phủ nhận thức sự mục nát của kẻ thống trị và nỗi đau khổ của nhân dân, khiến ông dần dần trở thành một nhà thơ lo việc nước lo việc dân.
Năm 755 công nguyên, Đỗ Phủ 43 tuổi được nhậm một chức quan, nhưng một tháng sau, Nhà Đường xảy ra phiến loạn chiến tranh, sau đó, phiến loạn chiến tranh xẩy ra không ngừng. Trong thời kỳ này, Đỗ Phủ trôi giạt đó đây, trải qua nhiều gian nan, có nhận thức tỉnh táo hơn đối với hiện thực. Ông viết ra các bài thơ nổi tiếng như "Đăng cao","Thạch Hào Lại", "Đồng Quan Lại", "Tân An Lại", "Tân Hôn Biệt", "Thùy Lão Biệt" và "Vô Gia Biệt", bày tỏ lòng đồng tình sâu sắc đối với nhân dân và phẫn nộ đối với chiến tranh của nhà thơ.
Năm 759 công nguyên, Đỗ Phủ thất vọng triệt để đối với chính trị, từ quan về vườn. Lúc bấy giờ, Trường An đang bị hạn hán, Đỗ Phủ nghèo đến nỗi không thể sống nổi, bèn dẫn người nhà lưu vong đến Thành Đô ở miền tây nam Trung Quốc. Được sự cứu tế của bạn bè, Đỗ Phủ sống cuộc sống ở ẩn 4 năm. Trong tình hình nghèo khó, Đỗ Phủ viết ra bài thơ "Lều tranh bị cơn gió mùa thu phá hoại", miêu tả hoàn cảnh khốn khổ của cả gia đình, và từ từng trải thiết thân của mình nghĩ đến cảnh ngộ của người khác, khát khao có hàng chục triệu căn nhà để giúp mọi người nghèo chịu rét chịu đói trong thiên hạ được thoát khỏi nỗi đau khổ, thậm chí ông muốn hy sinh cá nhân để đổi lấy nụ cười của mọi người nghèo trong thiên hạ. Bài thơ có tình cảm sâu thẳm, thể hiện tinh thần cao cả của nhà thơ.
Năm 770 công nguyên, Đỗ Phủ 59 tuổi mất trên đường lưu vong bởi bần cùng và bệnh tật. Đỗ Phủ để lại hơn 1400 bài thơ, phản ánh sâu sắc, toàn diện diện mạo xã hội nhà Đường trong hơn 20 năm phiến loạn chiến tranh, từ thời kỳ phồn vinh đến thời kỳ suy sụp, áng văn hoành tráng như sử thi. Thơ của Đỗ Phủ có kết cấu đa dạng, ông học tập ưu điểm của người khác, dung hợp hình thức kể chuyện, ký sự, trữ tình và bình luận, thơ có nội dung sâu rộng, tình cảm chân thành nồng nàn; về mặt nghệ thuật, ông không những thu gomlại cái hay của thơ ca cổ điển, mà còn sáng tạo và phát triển, đã mở rộng lĩnh vực thơ ca về mặt nội dung và hình thức, ảnh hưởng sâu rộng tới đời sau.
Sau đây Ngọc Ánh xin đọc bài thơ "Đăng Cao" của Đỗ Phủ:
Phong cấp thiên cao viên khiếu ai
Chử thanh sa bạch điểu phi hồi
Vô biên lạc mộc tiêu tiêu há
Bất tận Trường giang cổn cổn lai
Vạn lý bi thu thường tách khách
Bách niên đa bệnh độc đăng đài
Gian nan khổ hận phồn sướng mấn
Đạo đảo tân đình trọc tửu bôi
Lên cao
Trời cao, gió mạnh, vượn kêu
Bãi quan, cát trắng, chim chiều bay quanh
Miên man lá rụng điêu linh
Nước sông cuồn cuộn, mênh mông chảy dào
Khách xa, thu tới thêm sầu
Tuổi già lắm bệnh, lên cao một mình
Gian nan tóc bạc khôn đành
Nỗi mình vất vả, hãy đình chén vui. 1 2 |