Vài nét về CRI            Ban tiếng Việt Nam
Trang chủ | Chuyên đề | Thể dục thể thao | Nhà Trường | Hộp thư Ngọc Ánh | Bách Khoa TQ
 
Thời sự | Văn hoá | Du lịch | Vui chơi giải trí | Tổng hợp | Tin ảnh | Học tiếng Trung Quốc      Vào Trang Cũ >>
 
  Thuốc bổ dương: Bổ Cốt Chỉ-Ích Trí Nhân
   2008-12-26 13:19:45    CRIonline

Thuốc bổ dương phần lớn vị cam, vị cay và vị mặn, tính ôn nhiệt, chủ yếu quy kinh lạc thận, có thể bổ cả nguyên khí và dương khí trong cơ thể, trường hợp dương thận suy yếu nên bổ, các phủ tạng khác cũng cần được ôn ấm, nhờ đó sẽ có thể loại bỏ và cải thiện chứng dương hư trong cơ thể. Thuốc bổ dương chủ yếu thích hợp thận dương không đủ, sợ lạnh, tứ chi lạnh, mỏi lưng, đau khớp, lạnh nhạt với tình dục, liệt dương, tinh dịch hàn lạnh không sinh nở, lạnh dạ con không chưa được, nước tiểu nhiều, đái dầm, dương tỳ và dương thận suy yếu, lạnh bụng, tức bụng, đau bụng, dương hư, thủy thũng, chóng mặt, hoa mắt, ù tai do chức năng gan và thận suy yếu và tinh huyết thiếu hụt gây nên cũng như các chứng tóc bạc, râu bạc trước tuổi, gân cốt yếu, trẻ em phát triển không tốt, trẻ em không liền thóp, mọc răng muộn, phổi hư, thận hư, thận không nạp khí dẫn đến ho, thận dương suy yếu, hạ nguyên hư lạnh, phụ nữ băng huyết, bạch đới v.v.

Bổ Cốt Chỉ

Bổ Cốt Chỉ: Vị đắng, vị cay, tính ôn, quy kinh lạc thận và tỳ. Bổ Cốt Chỉ gồm bốn công hiệu chữa trị chủ yếu: Một là bổ thận tráng dương, thích hợp chữa trị chứng thận hư, liệt dương, mỏi lưng, đau khớp. Công hiệu thứ hai là cố tinh giảm thiểu nước tiểu, thích hợp chữa trị các triệu chứng thận hư, di tinh, đái dầm, nước tiểu nhiều. Công hiệu thứ ba của Bổ Cốt Chỉ là ôn tỳ cầm ỉa chảy, dùng để chữa trị các chứng: Tỳ thận dương hư, ỉa chảy ban đêm, trường hợp này thường phối chế với Nhục Đậu Khấu, Ngô Thù Du. Công hiệu thứ tư của Bổ Cốt Chỉ là nạp khí làm dịu chứng hen xuyễn, thích hợp chữa trị chứng thận không nạp khí, hư hàn dẫn đến hen xuyễn.

Cách dùng và liều lượng: Mỗi lần từ 5-15 gam.

Điều cần phải lưu ý là: Bổ Cốt Chỉ tính ôn nhiệt, thương âm trợ hỏa, cho nên những người âm hư hỏa vượng, táo bón kiêng dùng.

Ích Trí Nhân

Ích Trí Nhân: Vị cay, tính ôn, quy kinh lạc thận và tỳ. Ích Trí Nhân gồm hai công hiệu chữa trị chủ yếu: Một là ấm thận, cố tinh, giảm thiểu nước tiểu, thích hợp dùng để chữa trị các chứng bệnh như hạ nguyên hư hàn, di tinh, đái dầm, nước tiểu nhiều, các trường hợp này thường hay phối chế với Ô Dược, Sơn Dược?hoài sơn?. Công hiệu thứ hai của Ích Trí Nhân là ôn tỳ, khai vị, thích hợp chữa trị các chứng bệnh như tỳ vị hư hàn, đau bụng, buồn nôn, ỉa chảy và chảy nước dãi.

Cách dùng và liều lượng: Dùng Ích Trí Nhân sắc nước uống, mỗi lần từ 3-10 gam.

Điều cần phải lưu ý là: Ích Trí Nhân tính nhiệt, thương âm trợ dương, cho nên những người âm hư hỏa vượng và sốt kiêng dùng.

Bổ Cốt Chỉ và Ích Trí Nhân vị cay, tính ôn nhiệt, quy kinh lạc thận và tỳ, đều có thể bổ thận trợ dương, cố tinh giảm thiểu nước tiểu, ôn tỳ trị ỉa chảy, thích hợp chữa trị các chứng thận dương không đủ dẫn đến di tinh, hoạt tinh, nước tiểu nhiều; tỳ thận dương hư dẫn đến ỉa chảy. Hai vị thuốc này thường dùng chung với nhau trong lâm sàng. Điều khác nhau là Bổ Cốt Chỉ vị đắng, tính ôn nhiệt, công hiệu trợ dương khá mạnh, dược hiệu chủ yếu tác động tới thận, cho nên có công hiệu nổi bật về bổ thận tráng dương. Vì vậy, các trường hợp thận dương không đủ, Mệnh Môn ?trung vị?thiếu hỏa dẫn đến đau lưng, đau khớp, liệt dương v.v nói chung phải dùng đến Bổ Cốt Chỉ. Ngoài ra, Bổ Cốt Chỉ cũng có thể dùng để chữa trị chứng hen xuyễn do thận không nạp khí gây nên, phát huy công hiệu bổ dương thận, nạp khí để làm dịu chứng hen xuyễn. Ích Trí Nhân vị cay, tính ôn, công hiệu trợ dương yếu hơn so với Bổ Cốt Chỉ, dược hiệu chủ yếu tác động đến tỳ, có công hiệu nổi bật về ôn tỳ, khai vị, cầm nước dãi. Các trường hợp tỳ, vị hư hàn, ăn ít, trẻ em chảy nước dãi, lạnh bụng, đau bụng nói chung phải dùng đến Ích Trí Nhân.