Vài nét về CRI            Ban tiếng Việt Nam
Trang chủ | Chuyên đề | Thể dục thể thao | Nhà Trường | Hộp thư Ngọc Ánh | Bách Khoa TQ
 
Thời sự | Văn hoá | Du lịch | Vui chơi giải trí | Tổng hợp | Tin ảnh | Học tiếng Trung Quốc      Vào Trang Cũ >>
 
Thuốc thanh nhiệt tiêu đờm: Tiền Hồ- Quýt Ngạnh-quả Lười Ươi
   2008-01-11 15:07:50    cri
Phần lớn thuốc thanh nhiệt tiêu đờm đều thuộc tính hàn và tính mát, có công hiệu thanh nhiệt tiêu đờm, trong đó có một số thuốc mang dược hiệu thấm nhuận, một số thuốc thì vị mặn, có công hiệu làm mền và tan hạch. Thuốc thanh nhiệt tiêu đờm chủ yếu chữa trị chứng đờm do nhiệt gây nên, thí dụ như bị ho, hen xuyễn, đờm đặc mầu vàng; nếu đờm đặc không thể khạc ra, mồm khô, lưỡi khô, nên sử dụng thuốc tiêu đờm mang tính chất nhuận phổi; các chứng bệnh như đờm nhiệt, động kinh, trúng phong v.v cũng có thể dùng thuốc thanh nhiệt tiêu đờm. Thuốc thanh nhiệt tiêu đờm thuộc dược hiệu tính hàn, tính mát và nhuận phổi, vì vậy không nên dùng để chữa trị chứng có đờm bởi hàn khí và thấp gây nên.

Tiền Hồ: Vị đắng, cay, tính hàn, quy kinh lạc phổi. Tiền Hồ gồm hai công hiệu chữa trị chủ yếu: Một là giáng khí tiêu đờm, thích hợp chữa trị chứng đờm nhiệt dẫn đến bị ho và hen xuyễn, thường hay phối chế với Bạch Tiền. Công hiệu thứ hai là trừ gió tản nhiệt với triệu chứng bị ho do cảm gió nóng gây nên.

Cách dùng và liều lượng: Dùng Tiền Hồ sắc nước uống, mỗi lần từ 6-10 gam hoặc làm thành dạng viên và dạng bột.

Bạch Tiền và Tiền Hồ xưa nay có tên gọi là "Nhị Tiền", hai vị thuốc này đều có đặc điểm vị cay, tính tản, vị đắng tính giáng, có công hiệu giáng khí tiêu đờm, trong lâm sàng dùng để chữa trị đờm ngạt phổi dẫn đến khí không thông mà chạy ngược lên phía trên, hen xuyễn, nhiều đờm. Điều khác nhau là Bạch Tiền tính hơi ôn, có công hiệu nổi bật về ôn phổi tiêu đờm do hàn khí gây nên, chủ yếu chữa trị chứng đờm hàn, hen xuyễn. Bạch Tiền hơi ôn không nhiệt, bất cứ là chứng hàn hay chứng nhiệt, cảm gió hay là nội nhiệt, lúc đầu bị ho hay là bị ho lâu ngày đều có thể dùng, xưa nay được coi là "Vị thuốc quan trọng dùng để chữa trị bệnh phổi". Còn Tiền Hồ thì tính hơi hàn, có công hiệu nổi bật về thanh nhiệt tiêu đờm, chủ yếu thích hợp chữa trị chứng đờm nhiệt dẫn đến bị ho và hen xuyễn, đồng thời có thể trừ gió và tản nhiệt, dùng để chữa trị trứng cảm gió và cảm nóng với các triệu chứng như: Khí phổi không thông dẫn đến nhiều đờm và bị ho, bị sốt, đau đầu. Cho nên chuyên gia cho rằng, Tiền Hồ "có công hiệu vừa tuyên phổi vừa giáng khí".

Quýt Ngạnh?cành cây quýt?: Vị đắng, cay, tính bình hòa, quy kinh lạc phổi. Quýt Ngạnh gồm bốn công hiệu chữa trị chủ yếu. Một là tuyên phổi tiêu đờm với các chứng bệnh bị ho, đờm nhiều, tức ngực. Trường hợp chữa trị chứng phong hàn thường dùng chung với Tía Tô và Hạnh Nhân, nếu dùng để chữa trị chứng cảm gió nóng thì phối chế với lá Dâu, Hoa Cúc và Hạnh Nhân. Công hiệu thứ hai là mát họng, thích hợp chữa trị chứng đau họng, viêm họng, khàn tiếng hoặc mất tiếng. Công hiệu thứ ba là tiêu mủ, thích hợp chữa trị chứng phổi bị sưng do mủ, nôn ra mủ. Công hiệu thứ tư của Quýt Ngạnh là tuyên phổi thông đại tiện.

Cách dùng và liều lượng: Dùng Quýt Ngạnh sắc nước uống, mỗi lần từ 3-10 gam, hoặc làm thành dạng viên và dạng bột.

Điều cần phải lưu ý là: Vị thuốc này có tính thăng và tản, cho nên miễn là xuất hiện các triệu chứng khí chạy ngược lên phía trên, bị nôn, bị ho sặc, chóng mặt, âm hư hỏa vượng khạc ra máu v.v đều không nên dùng, bệnh nhân viêm loét dạy dày và tá tràng nên thận trọng khi sử dụng. Dùng quá liều dễ bị nôn.

Quả Lười Ươi: Vị cam, tính hàn, quy kinh lạc phổi và đại tràng, gồm có ba công hiệu chữa trị chủ yếu: Một là thanh phổi tiêu đờm, hai là mát họng trong tiếng, với các chứng bệnh như phổi nhiệt, khàn tiếng, sưng cổ họng, đau cổ họng, bị ho v.v. Công hiệu thứ ba của quả Lười Ươi là nhuận tràng thông đại tiện, dùng để chữa trị chứng nhiệt, táo bón, đau đầu, đỏ mắt.

Cách dùng và liều lượng: Mỗi lần dùng từ 2-4 quả, dùng nước đun sôi ngâm nước uống hoặc sắc nước uống.

Nói tóm lại: Quýt Ngạnh và quả Lười Ươi đều có công hiệu tuyên phổi, tiêu đờm, mát họng, trong tiếng, thích hợp chữa trị chứng đau họng, sưng họng, khàn tiếng. Điều khác nhau là Quýt Ngạnh vị cay thì tính tản, vị đắng thì tính tiết với dược hiệu bình hòa, công hiệu tuyên phổi tiêu đờm rất mạnh, miễn là chứng tà khí bên ngoài thâm nhập phổi, đau họng khàn tiếng bởi nhiệt độc thịnh hành gây nên đều có thể dùng Quýt Ngạnh, bên cạnh đó Quýt Ngạnh có công hiệu tiêu mủ, đưa thuốc lên phần trên cơ thể con người, có thể chữa trị chứng bị ho nhiều đờm, bất cứ là cảm gió lạnh, cảm gió nóng, phổi hàn hay là phổi nhiệt đều có thể phối chế với các vị thuốc khác; khi làm mồi thuốc, Quýt Ngạnh có thể dẫn thuốc lên thượng vị để chữa trị các chứng trên ngực. Ngoài ra, Quýt Ngạnh còn có thể tuyên phổi và thông đại tiện, tiểu tiện. Quả Lười Ươi có công hiệu nổi bật thanh phổi tiêu đờm, mát họng trong tiếng, thường hay dùng để chữa trị các chứng phổi nhiệt, khàn tiếng, đau cổ họng và bị ho, đồng thời có thể nhuận tràng thông đại tiện, chữa trị chứng đau đầu, đỏ mắt.