Thuốc tiêu đờm trị ho làm dịu hen xuyễn có hàm nghĩa là: phàm là thuốc chủ trị về hóa đờm hoặc tiêu đờm thì được gọi chung là thuốc tiêu đờm, còn thuốc chủ trị về ho hoặc giảm nhẹ triệu chứng ho và làm dịu hen xuyễn thì gọi chung là thuốc trị ho làm dịu chứng hen xuyễn. Thuốc tiêu đờm có tác dụng trị ho làm dịu hen xuyễn, trong khi đó thuốc trị ho làm dịu chứng hen xuyễn cũng có tác dụng tiêu đờm, thông thường ba chứng đờm, ho và hen xuyễn đi song song với nhau, cho nên thuốc tiêu đờm, trị ho và làm dịu hen xuyễn có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Phạm vi thích ứng của thuốc tiêu đờm cầm ho chữa trị hen xuyễn: Thuốc tiêu đờm chủ yếu chữa trị chứng đờm. Đờm vừa là con đẻ của bệnh lý, lại là nhân tố gây nên bệnh, đờm chạy theo khí, có thể lên xuống và chạy khắp mọi nơi trong cơ thể con người. Vì thế triệu chứng đờm có rất nhiều , thí dụ như đờm tắc phổi dẫn đến hen xuyễn và có nhiều đờm, đờm che lấp tim dẫn đến hôn mê và co giật, đờm bịt thanh dương gây nên chóng mặt, đờm quấy tâm thần sẽ làm cho người ta mất ngủ, gan trúng gió và có đờm rất dễ dẫn đến trúng phong và động kinh, đờm làm tắc kinh lạc thì khiến tứ chi và cơ bắp bị tê, bán thân bất toại, bại liệt nửa người, mắt xệch mồm méo v.v. Với những chứng bệnh kể trên đều có thể dùng thuốc tiêu đờm. Thuốc trị ho làm dịu chứng hen xuyễn thích hợp dùng cho các loại chứng ho, hen xuyễn bởi cảm gió và bị thương bên trong cơ thể gây nên.
Phương pháp bào chế: Khi chúng ta sử dụng thuốc tiêu đờm trị ho làm dịu chứng hen xuyễn, ngoài căn cứ chứng bệnh khác nhau để lựa chọn thuốc tiêu đờm, trị ho và làm dịu chứng hen xuyễn một cách cụ thể ra, do chứng ho và hen xuyễn thường hay kèm theo nhiều đờm, trái lại chứng nhiều đờm lại dẫn đến bị ho, cho nên các vị thuốc tiêu đờm, trị ho và làm dịu hen xuyễn thường hay dùng chung với nhau. Bên cạnh đó cần phải phối thuốc theo nguyên nhân và bệnh lý khác nhau của chứng có đờm, bị ho và hen xuyễn, tìm gốc chữa bệnh, nhằm đạt mục đích trị cả gốc lẫn ngọn. Nếu do cảm gió dẫn đến bệnh thì nên phối chế với thuốc giải biểu khử tà, trường hợp hỏa nhiệt gây nên đờm, bị ho và hen xuyễn, nên dùng chung với thuốc thanh nhiệt tiết hỏa, nếu bệnh nhân bị hàn bên trong thì nên phối chế với thuốc ôn trong khử hàn. Với bệnh nhân cơ thể suy yếu và mệt mỏi nên dùng chung với thuốc bổ hư. Ngoài ra, bệnh nhân xuất hiện chứng co giật, động kinh, chóng mặt và hôn mê thì nên phối chế với thuốc bình gan khử gió, thông hơi và an thần, trường hợp đờm thành hạt nên phối chế với thuốc làm mềm cục cứng và tan hạch. Trong khi chữa trị chứng đờm, ngoài lựa chọn thuốc tiêu đờm khác nhau theo sự khác nhau của chứng đờm ra, còn phải căn cứ nguyên nhân sinh ra đờm, để áp dụng biện pháp chữa trị tùy theo nguyên nhân. "Tì là ổ sinh đờm", tì hư thì chất tiết không quy chính mà tụ thấp sinh đờm,vì thế nói chung cần phải phối chế với thuốc kiện tỳ khử thấp để trị tận gốc lẫn ngọn. Bên cạnh đó do đờm dễ dẫn đến khí bị tắc, "khí tắc thì đờm tụ, hành khí sẽ tiêu đờm", cho nên thường dùng chung với thuốc hành khí để tăng cường công hiệu tiêu đờm.
Những điều cần lưu ý: Một số thuốc tiêu đờm mang chất kích thích khá mạnh, trong đờm bệnh nhân kèm theo máu và có xu hướng ra máu nên thận trọng khi sử dụng, triệu chứng ho bởi tà khí trong lúc đầu phát ban mọc sởi gây nên không nên đơn thuần sử dụng thuốc trị ho, mà cần phải thông giải thanh tuyên là chính, tránh tà khí không thoát mà dẫn đến hen xuyễn lâu ngày và ảnh hưởng tới phát ban hoàn toàn, trường hợp này đặc biệt kiêng thuốc kiềm chế và thuốc ôn.
Phân loại: Căn cứ dược tính, dược hiệu và công hiệu chữa trị chủ yếu khác nhau, thuốc tiêu đờm, trị ho và chữa trị hen xuyễn có thể chia làm ba loại; Một là thuốc ôn hóa đờm bởi chứng hàn gây nên, hai là thuốc thanh hóa đờm bởi chứng nhiệt gây nên, ba là thuốc trị ho làm dịu hen xuyễn. |