Vài nét về CRI            Ban tiếng Việt Nam
Trang chủ | Chuyên đề | Thể dục thể thao | Nhà Trường | Hộp thư Ngọc Ánh | Bách Khoa TQ
 
Thời sự | Văn hoá | Du lịch | Vui chơi giải trí | Tổng hợp | Tin ảnh | Học tiếng Trung Quốc      Vào Trang Cũ >>
 
Thuốc phá huyết tiêu tích tan hạch:Ban Miêu - Xuyên Sơn Giáp
   2007-11-09 15:20:11    cri
Thuốc phá huyết tiêu tích tan hạch phần lớn vị đắng hơi mặn, thuốc côn trùng chiếm khá nhiều, chủ yếu quy kinh lạc gan và nhập huyết. Tính thuốc rất mạnh, tẩu nhi bất thủ, có thể phá huyết tiêu ứ, tiêu tích tan hạch, chủ yếu chữa trị chứng tích tụ thành hạch thành cục bởi huyết trệ lâu ngày và nghiêm trọng gây nên. Cũng có thể dùng để chữa trị các chứng tắc kinh bởi huyết trệ dẫn đến, đau sưng tấy, tê liệt v.v.

Ban Miêu : Vị cay, tính nhiệt, chứa đại độc, quy kinh lạc gan, thận và dạ dày. Ban Miêu gồm có bốn công hiệu chữa trị chủ yếu: Một là phá huyết tan ứ, hai là tan hạch, hai trường hợp này thông thường xuất hiện triệu trứng huyết trệ dẫn đến thành hạch, thành cục và phụ nữ tắc kinh. Công hiệu thứ ba là tấn công độc tố, thích hợp chữa trị chứng mụn độc, vẩy nến, tràng hạch v.v, công hiệu thứ tư của Ban Miêu là chữa trị chứng liệt mặt, tê thấp v.v.

Cách dùng và liều lượng: Nói chung chế biến thành thuốc viên và dạng bột để uống, mỗi lần dùng từ 0,03-0,06 gam, trường hợp dùng ngoài da nên dùng với lượng vừa phải, nghiền thành bột đắp lên vết thương, hoặc tẩm qua rượu và dấm để bôi lên vết thương. Nếu trường hợp dùng để uống nên rang với gạo nếp, hoặc phối chế với Thanh Đới và Đan Sâm nhằm làm dịu độc tố của nó.

Điều cần phải lưu ý là: Ban Miêu đại độc, nên thận trọng khi sử dụng, phải nghiêm khắc dùng theo liều lượng, những người thể chất suy yếu và phụ nữ có thai kiêng dùng. Trường hợp dùng ngoài da sẽ có sự kích thích mạnh đối với da và niêm mạc, cho nên không bôi hoặc đắp trên diện tích da lớn trong thời gian dài.

Xuyên Sơn Giáp: Vị mặn, tính hơi hàn, quy kinh lạc gan và dạ dày. Xuyên Sơn Giáp gồm có bốn công hiệu chữa trị chủ yếu: Một là hoạt huyết để đạt mục đích loại bỏ chứng bệnh, thích hợp chữa trị tê thấp do phong hàn gây nên, chứng tê liệt do trúng phong gây nên. Hai là thông kinh lạc, có công hiệu phá cục tan hạch,chữa trị chứng tắc kinh. Công hiệu thứ ba là thông sữa, thích hợp cho phụ nữ sữa không thông sau khi sinh nở. Công hiệu thứ tư của Xuyên Sơn Giáp là giảm sưng tiêu mủ, thích hợp chữa trị các chứng mụn nhọt, tràng hạch, trường hợp này thường hay phối chế với Ngân Hoa, bột Thiên Hoa, gai Bồ Kết.

Cách dùng và liều lượng: Dùng Xuyên Sơn Giáp sắc nước uống, mỗi lần từ 3-10 gam. Nếu nghiền thành bột thì mỗi lần uống từ 1-1,5 gam là vừa.

Điều cần phải lưu ý là: Phụ nữ có thai nên thận trọng khi sử dụng.Trường hợp chứng mụn nhọt bị vỡ kiêng dùng.

Bên cạnh Xuyên Sơn Giáp có vị thuốc mang tên Vương Bất Lưu Hành. Hai vị thuốc này đều có công hiệu hoạt huyết thông kinh lạc, thông sữa. Xuyên Sơn Giáp và Vương Bất Lưu Hành là hai vị thuốc quan trọng có công hiệu thông kinh lạc và thông sữa, đều thích hợp chữa trị các chứng tắc kinh, đau bụng khi hành kinh, đau bụng sau khi sinh nở bởi huyết trệ gây nên cũng như sữa không thông và đau vú sau khi sinh nở. Hai vị thuốc này thường hay dùng chung với nhau trong lâm sàng. Điều khác nhau là Xuyên Sơn Giáp với tính thuốc chạy nhanh và có công hiệu nổi bật về thông suốt, dược hiệu giáng tiết rất mạnh, bên cạnh đó còn có thể hoạt huyết tan hạch, hết sưng, tiêu mủ,vì thế có thể dùng để chữa trị chứng tích tụ thành hạch thành cục, tê thấp bởi phong hàn gây nên, tê liệt do trúng phong gây nên, viêm loét, mụn độc, tràng hạch v.v. Ngoài những công hiệu kể trên ra, Vương Bất Lưu Hành còn có tác dụng thông tiểu tiện, chữa trị chứng tiểu tiện đau rát.