
Mới đây, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc công bố “Phương án thực thi chương trình bảo vệ, kế thừa nền văn minh nước Thục cổ”, đề ra sẽ đẩy nhanh thúc đẩy chuẩn bị hồ sơ đề nghị công nhận di chỉ nền văn minh nước Thục cổ với di chỉ Tam Tinh Đôi là đại diện là Di sản Văn hóa Thế giới. Nhiều chuyên gia cho rằng, di chỉ Tam Tinh Đôi không những là một tấm danh thiếp hấp dẫn của di sản văn hóa Trung Quốc, mà còn là sự minh chứng về các nền văn minh châu Á học tập, tham khảo lẫn nhau, sáng tạo phát triển.

Mới đây, Giáo sư Học viện Lịch sử-Văn hóa Trường Đại học Tứ Xuyên Lý Ánh Phúc đang làm công tác nghiên cứu và chuẩn bị hồ sơ đề nghị công nhận di chỉ nền văn minh nước Thục cổ là Di sản Văn hóa Thế giới. Giáo sư Lý Ánh Phúc cho biết, trong một thời gian dài trước kia, Tứ Xuyên thời cổ đại bị cho rằng là vùng đất hoang vắng có giao thông bất tiện, héo lảnh, lạc hậu, cho đến khi di chỉ Tam Tinh Đôi được phát hiện, “ngủ say hàng nghìn năm, sau khi tỉnh dậy làm thiên hạ kinh ngạc”. Nền văn minh Tam Tinh Đôi xán lạn rực rỡ đã bác bỏ mạnh mẽ cách nói Tứ Xuyên thời cổ đại là vùng đất có văn hóa lạc hậu, minh chứng nền văn minh Trung Hoa có cội nguồn đa nguyên, nhất thể, giống như những ngôi sao trên bầu trời đua nhau tỏa sáng. Điều quan trọng hơn là, các nhà khảo cổ học phát hiện, nền văn minh Tam Tinh Đôi không những có mối liên hệ gắn bó với nền văn minh Trung Nguyên, nền văn minh khu vực trung hạ du sông Trường Giang, mà còn từng giao lưu với nền văn minh của nhiều nước châu Á cổ đại.

Giáo sư Lý Ánh Phúc cho biết, thông qua các cổ vật, di chỉ được phát hiện qua khảo cổ, có thể biết được nền văn minh Tam Tinh Đôi có quan hệ giao lưu văn hóa gắn bó với khu vực xung quanh, thậm chí khu vực Tây Á, Trung Á cách xa xôi hơn. Chẳng hạn, những cổ vật như gậy vàng, phần đầu gậy tượng trưng cho quyền lực, mặt nạ vàng, v.v. được phát hiện ở di chỉ Tam Tinh Đôi, cũng từng được phát hiện ở khu vực Tây Á, Trung Á và Đông Nam Á.

Giáo sư Lý Ánh Phúc cho biết: “Gậy tượng trưng cho quyền lực được khai quật từ những khu vực này tuy có hình dáng, chất liệu rất đa dạng, nhưng đều tượng trưng cho quyền lực của thần, quyền lực của vua. Nhà khảo cổ học nổi tiếng Trương Quang Trực cho rằng, ngọc tông (đồ ngọc hình trụ, bên ngoài hình vuông, ở giữa có lỗ tròn, trên thân ngọc tông phân thành nhiều đốt nhỏ) được khai quật từ di chỉ Lương Chử ở miền đông-nam Trung Quốc, di chỉ chùa Đào ở tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc là kết quả giao lưu quan điểm xuyên khu vực, những cổ vật nói trên được phát hiện ở di chỉ Tam Tinh Đôi cũng tương tự”.

Không chỉ như vậy, ở miền Bắc Việt Nam cách di chỉ Tam Tinh Đôi hàng nghìn ki-lô-mét cũng khai quật ra một lượng lớn cổ vật tương tự phát hiện ở Tam Tinh Đôi như nha chương, ngọc bích, đồ đựng thực phẩm làm bằng gốm, v.v. Năm 2006, Viện nghiên cứu khảo cổ và văn vật tỉnh Tứ Xuyên và Viện nghiên cứu khảo cổ tỉnh Thiểm Tây thành lập đội khảo cổ chung, đến di chỉ Nghĩa Lập ở tỉnh Vĩnh Phúc, Việt Nam tiến hành khảo cổ, khai quật. Sau 3 tháng khảo cổ, thu hoạch lớn hơn dự báo, các cổ vật được khai quật ra hiện lên mối liên hệ gắn bó với nền văn minh Tam Tinh Đôi, khiến các học giả rất ngạc nhiên.
Nghiên cứu viên Viện nghiên cứu khảo cổ và văn vật tỉnh Tứ Xuyên Cao Đại Luân cho rằng, nếu văn hóa của hai nơi chưa từng giao lưu mật thiết, làm sao có được cổ vật tương tự như vậy?

Trong số các cổ vật được khai quật từ khu hầm đồ tế trong di chỉ Tam Tinh Đôi, không những có những cổ vật có kích thước lớn phản ánh trình độ nghệ thuật tối cao của người nước Thục cổ, khiến mọi người phải thán phục như mặt nạ vàng, cây bằng đồng đen, tượng người với tư thế đứng làm bằng đồng đen, mặt nạ đồng đen, tượng thần, v.v., mà còn có hàng nghìn sò biển.

Di chỉ Tam Tinh Đôi nằm ở vùng nội địa, cách biển xa xôi, vì sao có một lượng lớn sò biển như vậy? Giáo sư Lý Ánh Phúc cho biết: “Đây là sự minh chứng cho di chỉ Tam Tinh Đôi—nền văn minh đại lục giao lưu, liên hệ với nền văn minh hải dương, mặc dù xa cách nghìn dặm, núi cao đèo dốc, cũng không thể ngăn cản sự giao lưu giữa lục địa và hải dương”.

Các chuyên gia cho rằng, di chỉ Tam Tinh Đôi không những không có giao thông bất tiện, ngược lại là một nền văn minh cởi mở, bao trùm. Trong quá trình va chạm, hòa hợp, giao lưu với các nền văn minh vĩ đại khác ở châu Á, nền văn minh Tam Tinh Đôi đã hình thành nền văn minh độc đáo có trình độ phát triển cao, trở thành đại diện điển hình cho tính đa dạng và tính cởi mở của nền văn minh cổ đại Trung Quốc. Lịch sử di chỉ Tam Tinh Đôi một lần nữa nói lên, nền văn minh luôn sinh tồn, phát triển trong giao lưu và tham khảo, phong tỏa chỉ có thể mang lại hệ quả suy sụp, cởi mở và bao trùm mới có thể thực hiện cùng phồn thịnh.

Những năm qua, trong “cơn sốt du học” xuất hiện ngày càng nhiều gương mặt Trung Quốc trẻ. Bên cạnh đó, một cơn sốt lưu học sinh nhỏ “ngược chiều” dần dần cũng có quy mô lớn, không ít học sinh tiểu học và trung học nước ngoài đồng loạt đến Trung Quốc học tập, cùng tiến lên với Trung Quốc trong quá trình phát triển.
Tại Trường quốc tế Hoa Mậu ở Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc, cô gái Nam Phi Senki Shuping có làn da đen sẫm, đôi mắt sâu rất bắt mắt trong các bạn học.
Em Senki Shuping năm nay 15 tuổi có tên Trung Quốc Lâm Thư Bình. 7 năm trước, em đi theo bố mẹ đến Ninh Ba. Em nói: “Bố mẹ em cho rằng giáo dục cơ sở của Trung Quốc rất thiết thực, em đến Trung Quốc với ý nghĩ ‘đến sớm học sớm’. Sau này, em muốn học chuyên ngành công nghệ, học tại Trung Quốc sẽ giúp em đặt nền tảng vững chắc”.
Theo em Lâm Thư Bình, giáo dục của Trung Quốc đa nguyên, bao trùm, hội nhập quốc tế. Em nói: “Hiện nay, toàn cầu đều dấy lên ‘cơn sốt Hán ngữ’, bên cạnh em có rất nhiều lưu học sinh trẻ như em, bọn em đều rất quen cuộc sống học tập ở đây. Hơn nữa, thanh toán di động ở Trung Quốc rất tiện lợi, sau khi về Nam Phi em còn cảm thấy không quen”.

Tương tự, cô gái Hàn Quốc Khổng Duy Bân cũng lựa chọn đến Trung Quốc học tập, theo đuổi “giấc mơ Trung Quốc” sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở ở Hàn Quốc.
Em Khổng Duy Bân năm nay học lớp 11, nói tiếng Trung rất lưu loát, em nói: “Tại giảng đường, em cùng học sinh Trung Quốc cùng lên lớp. Ban đầu em không phân biệt được các thanh điệu của Hán ngữ, vì trong tiếng Hàn Quốc rất ít có sự phân biệt về thanh điệu, cho nên gặp nhiều khó khăn trong học tập”.
Mặc dù học Hán ngữ thường làm cho em Khổng Duy Bân cảm thấy đau đầu, nhưng sức cuốn hút của Hán ngữ khiến em không cảm thấy mệt mỏi. Em cho biết, để học tốt tiếng Trung, em chăm chỉ học phát âm của mỗi chữ, thậm chí còn bắt đầu học cổ văn Trung Quốc khó hiểu.
Khác với đa số lưu học sinh nhỏ đến Trung Quốc vì nguyên nhân bố mẹ làm ở Trung Quốc, cô gái Hàn Quốc Liễu Hạo Quyên một mình đến Trung Quốc du học.
Em Liễu Hạo Quyên cho biết, năm 10 tuổi em đã đến Trung Quốc học tập. Em nói: “Bố mẹ của em luôn quan tâm tình hình phát triển của Trung Quốc trong những năm qua, họ cho rằng học tốt Hán ngữ có nghĩa là nắm bắt càng nhiều cơ hội phát triển. Vì vậy, dưới sự ủng hộ của bố mẹ, em đến Trung Quốc học tập, theo đuổi ước mơ của mình”.
Hiện nay, Em Liễu Hạo Quyên năm nay học lớp 12 đã được Trường Đại học Bắc Kinh tuyển chọn trước. Em mong sau này làm công tác thương mại hoặc truyền thông Trung-Hàn dựa vào thế mạnh nắm bắt Hán ngữ. Em nói: “Em tin rằng bối cảnh tiếp nhận giáo dục ở hai nước Trung-Hàn sẽ tạo thế mạnh cho em, trong thời gian tới, doanh nghiệp và người Trung Quốc sẽ ở khắp nơi trên thế giới, em có thể trao đổi với họ một cách thuận lợi, sẽ khiến em có sức cạnh tranh lớn hơn”.






